Những ảnh hưởng của đổi mới vào năm 1986Trước năm 1986 với định hướng  traduction - Những ảnh hưởng của đổi mới vào năm 1986Trước năm 1986 với định hướng  Français comment dire

Những ảnh hưởng của đổi mới vào năm

Những ảnh hưởng của đổi mới vào năm 1986
Trước năm 1986 với định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, toàn bộ đất đai cũng như các nhà máy xí nghiệp, cơ sở sản xuất đều được quốc hữu hóa và sản xuất theo kế hoạch chỉ đạo của nhà nước mà không phải theo những yêu cầu của thị trường. Cả nước tập trung sản xuất nông nghiệp để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho người dân sau sự phá hoại quá lớn của chiến tranh.
Bối cảnh thế giới
Liên bang Xô viết sụp đổ,các nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nghèo nàn và kiệt quệ dần sụp đổ hoặc phải chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường,từ bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa hành chính chỉ huy. Các nước đông nam Á và đông á cũng dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế,mở rộng hội nhập để phát triển. Trung Quốc một nước xã hội chủ nghĩa lớn có môi trường kinh tế xã hội nhiều tương đồng với Việt Nam cũng cải cách kinh tế và có những thành công lớn về phát triển kinh tế. Làn sóng cải cách kinh tế trên toàn thế giới đã gây nên những tác động đến tư duy của những người đứng đầu nhà nước, đây chính là những tiền đề cho việc cải cách kinh tế ở Việt Nam.
Tình hình trong nước
Với nền kinh tế kế hoạch tập trung, do đặc điểm về sự phân công lao động, mọi người dân đều được đảm về việc làm và đất sản xuất. Tuy gây nên sự ỳ trệ và kém phát triển của nên kinh tế nhưng với các chương trình phát triển của chính phủ về dịch vụ xã hội như giáo dục,sức khỏe đều được quan tâm, giúp đỡ và những ưu đãi để dễ dàng tiếp cận cho những người nạn nhân chiến tranh,thương binh,người tàn tật cũng như những người dân nghèo nhất.Tuy rằng chất lượng của các dịch vụ xã hội và mức sống của người dân trong thời kỳ này không cao thế nhưng nó lại đảm bảo cho người dân một đời sống tối thiểu để có thể ổn định lại sau những tàn phá của chiến tranh. Xã hội không có những cách biệt về giàu nghèo và phân chia rõ ràng về giai cấp.
Tuy nhiên sau một thời gian đã khắc phục một phần những hậu quả của chiến tranh, nền kinh tế kế hoạch tập trung cũng đã bộc lộ những nhược điểm của nó. Khi toàn bộ các cơ sở sản xuất đều là tư hữu hóa thì thì sức cạnh tranh để sản xuất phát triển là hoàn toàn không có, không tạo được động lực để gia tăng chất lượng và chủng loại hàng hóa. Hàng hóa được sản xuất ra không được lưu thông dẫn đến nghịch lý giữa việc dư thừa lãng phí và vẫn thiếu hàng hóa. Con người trong xã hội trì trệ và nhàm chán không có cá tính và sức sáng tạo để tạo nên cái mới mà chỉ sản xuất theo những kế hoạch và kỉ luật đã được định hình từ trước. Đời sống xã hội cũng vô cùng đơn điệu và hạn chế khi không có sự giao lưu với thế giới, việc bị cách ly khiến cho hiểu biết của con người lạc hậu và kém phát triển, tư duy không năng động, ỉ lại cao và kém í chí phấn đấu. Cùng với đó là nền kinh tế bế quan tỏa cảng không có được vốn đầu tư từ bên ngoài,hàng hóa chất lượng kém và nghèo nàn không thể thu được những lợi ích từ xuất khẩu. Những điều này gia tăng sức ép lên nguồn ngân sách hạn hẹp của nhà nước khi phải đầu tư dàn trải trên quá nhiều lĩnh vưc và dân số tăng lên nhanh chóng sau chiến tranh khiến cho ngân sách của nhà nước quá tải và kiệt quệ. Bộ máy nhà nước trì trệ và nặng nề do mọi việc đều phụ thuộc vào những kế hoạch trung ương khiến cho nền mọi phản ứng từ khi được hoạch định đến khi triển khai mất một thời gian quá dài và khi được thược hiện thì đã không còn ứng phó kịp trước các biến đổi về xã hội và kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã chìm sâu trong một thời gian dài vào sự tụt hậu và kém phát triển so với các nên kinh tế trong khu vực cũng như nền kinh tế thế giới
Hơn nữa sự sụp đổ toàn bộ của Liên bang xô và chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1979 đã cắt bỏ toàn bộ nguồn viện trợ của Việt Nam, buộc Việt Nam phải tìm ra một lối đi mới cho mình,từ đó dẫn đến quyết định phải thay đổi cơ chế của nền kinh tế để thoát khỏi sự đổ vỡ như đối với các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu. Sau năm 1986 nhận ra sự kém hiệu quả của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, đại hội Đảng 5 (12-1986) đã quyết định chuyển hướng nền kinh tế phát triển theo sang phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và Việt Nam bước vào thời kì đổi mới.
Bởi nền kinh tế thị trường với những đặc điểm của sự cạnh tranh và chạy đua khốc liệt làm cho con người buộc phải có đầu óc năng động sáng tạo, linh hoạt sự thích nghi nhanh chóng và phản ứng hiệu quả.Từ việc nâng cao chất lượng của từng cá nhân đã góp phần vào sự năng động của toàn xã hội để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế mở. Nền kinh tế thị trường tạo ra một môi trường lý tưởng để con người phát huy tối đa năng lực cá nhân cũng như mở rộng việc giao lưu liên kết với nước ngoài. Khắc phục tối ưu những điểm yếu của kinh tế và xã hội Việt Nam sau một thời gian dài thiếu thốn và lạc hậu của của thời kì trước và sau chiến tranh(3)
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường không đi vào việt Nam một cách đột ngột mà được xây dựng từng bước với sự nới lỏng dần dần các hoạt động kinh tế để hướng đến một nền kinh tế thị trường ổn định. Cùng với đó là mục tiêu ổn định chính trị để phát triển. Các thể chế chính trị được thay đổi dần dần có thể được hiểu là để phục vụ mục tiêu ổn định chính trị này nhưng cũng có thể được hiểu là sự trì trệ của tư tưởng bảo thủ không muốn cải cách triệt để(4)
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính sách xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế chứ không phải hệ quả của những biến động chính trị. Đặc điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là lấy sự ổn định về chính trị-xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự đổi mới, phát triển để tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn.
Giai đoạn dễ bị tổn thương của thời kì đổi mới1980-1990
Trong thời gian đầu của thời kỳ đổi mới,chính phủ việt nam đã gặp rất nhiều khó khăn để toàn bộ hệ thống có thể thay đổi được tư duy và nhận thức khi chuyển mô hình kinh tế thị trường với tư tưởng hoàn toàn mới về nền kinh tế hàng hóa và xóa bỏ dần sự bao cấp của nhà nước. Hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh đều phá sản hoặc sản xuất cầm trừng khi không có sự nhạy bén, năng động với thị trường và thói quen phụ thuộc vào sự bao cấp của nhà nhà nước đã không thể thể theo kịp những biến đổi nhanh chóng của quy luật cạnh trạnh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó là việc cắt giảm nhân sự trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước để giảm bớt sự cồng kềnh kém hiệu quả cũng tạo ra một lượng lớn người thất nghiệp khiến cho tỉ lệ thất nghiệp tăng cao. Từ năm 1988 đến 1990 số lao động trong khu vực quốc doanh giảm hơn nửa triệu người.Việc không thích ứng kịp của với với nền kinh tế mới đã kiến cho làm phát tăng cao tới 35% năm 1989 và gần 70% năm 1991.
Người dân từ việc được bao cấp toàn bộ mọi mặt về đời sống nay phải chuyển sang tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân từ việc tìm kiếm việc làm cho tới các vấn đề của đời sống như lương thực, thực phẩm, nhà ở. Nguồn ngân sách hạn hẹp do thời gian đầu của thời kỳ đổi mới chưa có được vốn đầu tư cũng như các khoản thu và xóa bỏ sự bao cấp chuyển sang tập trung đầu tư phát triển công nghiệp nên các chương trình hỗ trợ về dịch vụ xã hội đều bị cắt bỏ hoặc hạn chế dần dần. Những đối tượng bị ảnh hưởng nhất là những người người về hưu, những gia đình đông con những công chức nhà nước và những người làm việc với mức lương cố định(2) . Sự xuất hiện của những ảnh hưởng này càng rõ nét hơn trong đời sống của người dân ở đô thị với thành phần chính là các công chức nhà nước và các công nhân trong nhà máy xí nghiệp quốc doanh.

Sự phát triển mạnh mẽ của thời kì đổi mới sau 1990
Cho đến năm 1992,tình hình kinh tế Việt Nam dần đi vào ổn đinh kể từ năm 1992 khi lần đầu tiên công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 16.6% tốc độ GDP tăng khoảng 6%(6).Trong giai đoạn 5 năm (từ 1993-1998) thu nhập bình quân đầu người tại việt nam đã tăng 2,45 lần (10)
Từ mô hình kinh tế tập trung với 2 thành phần chính là nhà nước và tập thể chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ( nhà nước, tập thể, cá thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản có vốn đầu tư nước ngoài)(8) .Nhà nước xây dựng hoạch định chính sách cả nước mỗi năm năm 1 lần. Cũng chính từ việc xóa bỏ dần chế độ bao cấp đã tháo bỏ được gánh nặng khi phải bao cấp cho toàn bộ xã hội và chi phí để duy trì một bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả, đồng thời lại được bổ sung từ các nguồn thu tăng cao từ việc phát triển kinh tế đã giúp cho nhà nước có nguồn ngân sách dồi dào hơn để đầu tư cho việc xây dựng hạ tầng xã hội. Từ việc chỉ có duy nhất ngân sách nhà nước đầu tư cho việc xây dựng thì giờ được bổ
0/5000
De: -
Vers: -
Résultats (Français) 1: [Copie]
Copié!
L'influence de l'innovation en 1986
avant 1986 avec le modèle de développement économique axée sur la socialiste du Vietnam d'économie planifiée, l'ensemble des terres ainsi que des installations industrielles, production des installations ont été nationalisées et la production prévue de l'État qui n'est pas conforme aux exigences du marché. Concentration de pays de la production agricole pour assurer la sécurité alimentaire fournit au peuple après la destruction du monde guerre.

l'Union soviétique s'est effondrée, les pays socialistes avec les économies pauvres et de la famine finissent par s'effondrer ou disposent passer à un mécanisme d'économie de marché,abandonner le mécanisme économique de directeur administratif de l'aménagement. Les pays d'Asie du sud-est et Asie du sud-est déplaçant progressivement la structure économique, développer l'intégration du développement. La Chine est un pays socialiste avec un environnement économique et social plus semblable aux réformes économiques du Vietnam et également eu beaucoup de succès en termes de développement économique. La vague de réformes économiques dans le monde entier a causé l'impact sur l'esprit des chefs d'État, c'est précisément le principe de la réforme économique au Vietnam.

la situation intérieure avec économie de planification centralisée, en raison des caractéristiques du travailpersonnes, toutes du prendre sur le tas et les terres productives. Alors que les causes du sous-développement et de l'économique prévue devraient économie mais avec le programme de développement du gouvernement pour les services sociaux tels que l'éducation et la santé sont concernés, aides et incitations pour faciliter l'accès pour ces victimes de la guerre, les blessés, les personnes handicapées ainsi que celles des plus pauvres.Bien que la qualité des services sociaux et le niveau de vie du peuple dans cette période ne sont pas élevés, mais elle assure aux personnes une durée de vie minimale afin de stabiliser à nouveau après les ravages de la guerre. La société ne pas avoir les différences de richesse et claires pour la classe ouvrière.
Cependant après qu'un certain temps la partie fixe de la suite de la guerre, les économies planifiées ont également révélé l'inconvénient, ce. Lorsque l'ensemble des installations de fabrication sont toutes marchandises exclusives sont alors en concurrence pour le développement de la production n'est absolument pas, ne créent pas la motivation pour augmenter la qualité et les types de marchandises. Marchandises sont produites pas la circulation entraîne le paradoxe entre les déchets excédentaires et les marchandises toujours portés disparus. Les gens dans la société est stagnante et ennuyeux avec aucune personnalité et créative pour constituer de nouveaux qui viennent de produire selon ces plans et discipline était en forme d'avant. La vie sociale est également extrêmement monotone et limitée lorsque aucune relation sexuelle avec le monde, étant en quarantaine pour l'entendement humain vers l'arrière et sous-développée, pensant non seulement haute dynamique dos et mal í libère s'efforçant. Ainsi qu'il est économie de solitude non investissement de l'extérieur,la pauvreté et des marchandises de mauvaise qualité ne pourraient pas recueillir les avantages de l'exportation. Se compose de cette augmentation de la pression sur les ressources budgétaires limitées de l'Etat d'investir trop sur la propagation et la population a augmenté rapidement après la guerre signifiait que l'état budget à la surcharge et de la famine. L'appareil d'État gravement stagnante et parce que tout dépend du plan central rend l'arrière-plan chaque réponse de la planification à la mise en œuvre prend quelque temps trop long et quelle sont les inscrits qui comptait alors ne réponde plus à temps avant la transformation de la société et l'économie. Économie du Vietnam a coulé dans un long moment sur le retard et sous-développé par rapport à l'économie devraient dans la région ainsi que l'économie mondiale
par ailleurs, l'effondrement de l'Union soviétique et la guerre avec la Chine en 1979 a coupé toutes les aides du Vietnam, forçant le Vietnam pour trouver un nouveau moyen pour lui-même,D'où la décision de changer le mécanisme de l'économie pour échapper à l'écrasement en ce qui concerne les pays socialistes en Europe orientale. Plus tard, en 1986, a reconnu l'inefficacité des modèles économiques prévues, le 5 de la Convention (12-1986) a décidé de réorienter l'économie se développent dans de développer une économie de marché sous l'orientation socialiste et Vietnam entra dans la période de renouvellement.
Par le marché avec les caractéristiques de la concurrence et une féroce course créatif dynamique homme-forcé de faire l'économie d'esprit, adaptation rapide souple et efficace réponse.De l'amélioration de la qualité de chacun a contribué au dynamisme de l'ensemble de la société afin d'améliorer l'efficacité de la production de l'économie ouverte. Économie de marché crée un environnement idéal pour maximiser la capacité humaine pour les particuliers mais aussi de développer les échanges de liens avec l'étranger. Optimal remédier aux insuffisances de l'économie et la société au Vietnam après une longue période de privation et de retard de la période avant et après la guerre (3)
Cependant, l'économie de marché ne va pas dans Vietnam brusquement qui construit peu à peu avec le relâchement progressif des activités économiques d'une économie de marché stable. Parallèlement à cela est l'objectif de la stabilité politique, de s'épanouir. Les institutions politiques changent progressivement peut être comprise comme une vise à servir cette stabilité politique, mais peut aussi être interprétée comme la stagnation de la pensée conservateurs ne veulent pas des réformes radicales (4)
diffère du bloc soviétique, au Vietnam la nécessité de politiques d'innovation découlant du secteur économique plutôt que la conséquence de la crise politique. Faits saillants de la rénovation au Vietnam prend la stabilité socio-politique comme prémisse, comme une condition sine qua non pour l'innovation, développe la nouvelle stabilité pour créer plus ferme.
Une période vulnérable en échange de la mới1980-1990
au début de la période de rénovation, le gouvernement vietnamien a rencontré beaucoup de difficultés afin que l'ensemble du système doit changer la pensée et les perceptions lorsque le modèle économique de marché de transfert avec complètement nouvelles idées sur l'économie des matières premières et l'élimination progressive de l'état de subventionnés. Une gamme d'État, les entreprises sont en faillite ou produisent bonne prise quand aucune perspicacité, dynamisme avec le marché et dépendent des habitudes de l'État n'a pas pu faire face à l'évolution rapide de l'état d'émuler féroce de l'économie de marché. Avec les réductions de personnel dans les institutions et les entreprises d'État afin de réduire leur pléthorique inefficace également créé un grand nombre de chômeurs a entraîné l'augmentation du taux de chômage. De 1988 à 1990 le nombre de main de œuvre dans le secteur public a diminué de plus d'un demi-million de personnes.Incapacité à s'adapter au temps de la nouvelle économie ont suscité montée à 35 % en 1989 et près de 70 % de 1991.
personnes de l'ensemble de la fourniture de couvert tous les aspects de la vie en ce moment tour à se débrouiller pour votre vie vous-même de trouver de l'emploi jusqu'à ce que les questions de la vie telles que la nourriture, nourriture, logement. Sources illimitées au moment de la période de rénovation, il a été investi ainsi que les revenus et d'abolir l'accent commuté subventionné aux industriels investissement et développement des programmes d'assistance, des services sociaux sont coupés ou restreindre progressivement. Ceux qui sont les plus touchés sont ceux qui à la retraite la grande famille des serviteurs et ceux qui travaillent avec salaire fixe (2). L'apparition de cette influence plus dans la vie des habitants de la commune avec les principales composantes sont les serviteurs et les travailleurs dans l'entreprise d'État usine.

le développement de puissantes nouvel changer période postérieure à 1990
Jusqu'en 1992, la stabilité économique de décoloration du Vietnam depuis 1992 quand la première industrie 6 premiers 16,6 accrue % annuel croissance du PIB d'environ 6 6%().Au cours de la période de cinq ans (1993-1998) le revenu par habitant au Vietnam a augmenté de 2,45 fois (10)
Du modèle économique centralisé avec 2 éléments principaux est le changement de paradigme économique État et collective aux marchandises plus de composants (l'Etat, collective, personne, personnes, propriétaires de private void capitaliste, capitalistes ont investi à l'étranger) (8).Construction de décideurs d'État à l'échelle nationale chaque année les années. Également du régime subventionné progressivement supprimé être accablés de subventionnés pour l'ensemble de la société et le coût de maintenir un système inefficace pléthorique, et on a ajouté de l'augmentation des revenus économiques développement a contribué à donner à l'État ont plus abondamment à l'investissement pour la construction d'infrastructures Assemblée. De l'état seul investissement de budget pour la construction de l'époque a été
En cours de traduction, veuillez patienter...
Résultats (Français) 2:[Copie]
Copié!
Những ảnh hưởng của đổi mới vào năm 1986
Trước năm 1986 với định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, toàn bộ đất đai cũng như các nhà máy xí nghiệp, cơ sở sản xuất đều được quốc hữu hóa và sản xuất theo kế hoạch chỉ đạo của nhà nước mà không phải theo những yêu cầu của thị trường. Cả nước tập trung sản xuất nông nghiệp để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho người dân sau sự phá hoại quá lớn của chiến tranh.
Bối cảnh thế giới
Liên bang Xô viết sụp đổ,các nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nghèo nàn và kiệt quệ dần sụp đổ hoặc phải chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường,từ bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa hành chính chỉ huy. Các nước đông nam Á và đông á cũng dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế,mở rộng hội nhập để phát triển. Trung Quốc một nước xã hội chủ nghĩa lớn có môi trường kinh tế xã hội nhiều tương đồng với Việt Nam cũng cải cách kinh tế và có những thành công lớn về phát triển kinh tế. Làn sóng cải cách kinh tế trên toàn thế giới đã gây nên những tác động đến tư duy của những người đứng đầu nhà nước, đây chính là những tiền đề cho việc cải cách kinh tế ở Việt Nam.
Tình hình trong nước
Với nền kinh tế kế hoạch tập trung, do đặc điểm về sự phân công lao động, mọi người dân đều được đảm về việc làm và đất sản xuất. Tuy gây nên sự ỳ trệ và kém phát triển của nên kinh tế nhưng với các chương trình phát triển của chính phủ về dịch vụ xã hội như giáo dục,sức khỏe đều được quan tâm, giúp đỡ và những ưu đãi để dễ dàng tiếp cận cho những người nạn nhân chiến tranh,thương binh,người tàn tật cũng như những người dân nghèo nhất.Tuy rằng chất lượng của các dịch vụ xã hội và mức sống của người dân trong thời kỳ này không cao thế nhưng nó lại đảm bảo cho người dân một đời sống tối thiểu để có thể ổn định lại sau những tàn phá của chiến tranh. Xã hội không có những cách biệt về giàu nghèo và phân chia rõ ràng về giai cấp.
Tuy nhiên sau một thời gian đã khắc phục một phần những hậu quả của chiến tranh, nền kinh tế kế hoạch tập trung cũng đã bộc lộ những nhược điểm của nó. Khi toàn bộ các cơ sở sản xuất đều là tư hữu hóa thì thì sức cạnh tranh để sản xuất phát triển là hoàn toàn không có, không tạo được động lực để gia tăng chất lượng và chủng loại hàng hóa. Hàng hóa được sản xuất ra không được lưu thông dẫn đến nghịch lý giữa việc dư thừa lãng phí và vẫn thiếu hàng hóa. Con người trong xã hội trì trệ và nhàm chán không có cá tính và sức sáng tạo để tạo nên cái mới mà chỉ sản xuất theo những kế hoạch và kỉ luật đã được định hình từ trước. Đời sống xã hội cũng vô cùng đơn điệu và hạn chế khi không có sự giao lưu với thế giới, việc bị cách ly khiến cho hiểu biết của con người lạc hậu và kém phát triển, tư duy không năng động, ỉ lại cao và kém í chí phấn đấu. Cùng với đó là nền kinh tế bế quan tỏa cảng không có được vốn đầu tư từ bên ngoài,hàng hóa chất lượng kém và nghèo nàn không thể thu được những lợi ích từ xuất khẩu. Những điều này gia tăng sức ép lên nguồn ngân sách hạn hẹp của nhà nước khi phải đầu tư dàn trải trên quá nhiều lĩnh vưc và dân số tăng lên nhanh chóng sau chiến tranh khiến cho ngân sách của nhà nước quá tải và kiệt quệ. Bộ máy nhà nước trì trệ và nặng nề do mọi việc đều phụ thuộc vào những kế hoạch trung ương khiến cho nền mọi phản ứng từ khi được hoạch định đến khi triển khai mất một thời gian quá dài và khi được thược hiện thì đã không còn ứng phó kịp trước các biến đổi về xã hội và kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã chìm sâu trong một thời gian dài vào sự tụt hậu và kém phát triển so với các nên kinh tế trong khu vực cũng như nền kinh tế thế giới
Hơn nữa sự sụp đổ toàn bộ của Liên bang xô và chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1979 đã cắt bỏ toàn bộ nguồn viện trợ của Việt Nam, buộc Việt Nam phải tìm ra một lối đi mới cho mình,từ đó dẫn đến quyết định phải thay đổi cơ chế của nền kinh tế để thoát khỏi sự đổ vỡ như đối với các nước xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu. Sau năm 1986 nhận ra sự kém hiệu quả của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, đại hội Đảng 5 (12-1986) đã quyết định chuyển hướng nền kinh tế phát triển theo sang phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và Việt Nam bước vào thời kì đổi mới.
Bởi nền kinh tế thị trường với những đặc điểm của sự cạnh tranh và chạy đua khốc liệt làm cho con người buộc phải có đầu óc năng động sáng tạo, linh hoạt sự thích nghi nhanh chóng và phản ứng hiệu quả.Từ việc nâng cao chất lượng của từng cá nhân đã góp phần vào sự năng động của toàn xã hội để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế mở. Nền kinh tế thị trường tạo ra một môi trường lý tưởng để con người phát huy tối đa năng lực cá nhân cũng như mở rộng việc giao lưu liên kết với nước ngoài. Khắc phục tối ưu những điểm yếu của kinh tế và xã hội Việt Nam sau một thời gian dài thiếu thốn và lạc hậu của của thời kì trước và sau chiến tranh(3)
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường không đi vào việt Nam một cách đột ngột mà được xây dựng từng bước với sự nới lỏng dần dần các hoạt động kinh tế để hướng đến một nền kinh tế thị trường ổn định. Cùng với đó là mục tiêu ổn định chính trị để phát triển. Các thể chế chính trị được thay đổi dần dần có thể được hiểu là để phục vụ mục tiêu ổn định chính trị này nhưng cũng có thể được hiểu là sự trì trệ của tư tưởng bảo thủ không muốn cải cách triệt để(4)
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính sách xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế chứ không phải hệ quả của những biến động chính trị. Đặc điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là lấy sự ổn định về chính trị-xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự đổi mới, phát triển để tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn.
Giai đoạn dễ bị tổn thương của thời kì đổi mới1980-1990
Trong thời gian đầu của thời kỳ đổi mới,chính phủ việt nam đã gặp rất nhiều khó khăn để toàn bộ hệ thống có thể thay đổi được tư duy và nhận thức khi chuyển mô hình kinh tế thị trường với tư tưởng hoàn toàn mới về nền kinh tế hàng hóa và xóa bỏ dần sự bao cấp của nhà nước. Hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh đều phá sản hoặc sản xuất cầm trừng khi không có sự nhạy bén, năng động với thị trường và thói quen phụ thuộc vào sự bao cấp của nhà nhà nước đã không thể thể theo kịp những biến đổi nhanh chóng của quy luật cạnh trạnh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Cùng với đó là việc cắt giảm nhân sự trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước để giảm bớt sự cồng kềnh kém hiệu quả cũng tạo ra một lượng lớn người thất nghiệp khiến cho tỉ lệ thất nghiệp tăng cao. Từ năm 1988 đến 1990 số lao động trong khu vực quốc doanh giảm hơn nửa triệu người.Việc không thích ứng kịp của với với nền kinh tế mới đã kiến cho làm phát tăng cao tới 35% năm 1989 và gần 70% năm 1991.
Người dân từ việc được bao cấp toàn bộ mọi mặt về đời sống nay phải chuyển sang tự lo liệu cho cuộc sống của bản thân từ việc tìm kiếm việc làm cho tới các vấn đề của đời sống như lương thực, thực phẩm, nhà ở. Nguồn ngân sách hạn hẹp do thời gian đầu của thời kỳ đổi mới chưa có được vốn đầu tư cũng như các khoản thu và xóa bỏ sự bao cấp chuyển sang tập trung đầu tư phát triển công nghiệp nên các chương trình hỗ trợ về dịch vụ xã hội đều bị cắt bỏ hoặc hạn chế dần dần. Những đối tượng bị ảnh hưởng nhất là những người người về hưu, những gia đình đông con những công chức nhà nước và những người làm việc với mức lương cố định(2) . Sự xuất hiện của những ảnh hưởng này càng rõ nét hơn trong đời sống của người dân ở đô thị với thành phần chính là các công chức nhà nước và các công nhân trong nhà máy xí nghiệp quốc doanh.

Sự phát triển mạnh mẽ của thời kì đổi mới sau 1990
Cho đến năm 1992,tình hình kinh tế Việt Nam dần đi vào ổn đinh kể từ năm 1992 khi lần đầu tiên công nghiệp 6 tháng đầu năm tăng 16.6% tốc độ GDP tăng khoảng 6%(6).Trong giai đoạn 5 năm (từ 1993-1998) thu nhập bình quân đầu người tại việt nam đã tăng 2,45 lần (10)
Từ mô hình kinh tế tập trung với 2 thành phần chính là nhà nước và tập thể chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ( nhà nước, tập thể, cá thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản có vốn đầu tư nước ngoài)(8) .Nhà nước xây dựng hoạch định chính sách cả nước mỗi năm năm 1 lần. Cũng chính từ việc xóa bỏ dần chế độ bao cấp đã tháo bỏ được gánh nặng khi phải bao cấp cho toàn bộ xã hội và chi phí để duy trì một bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả, đồng thời lại được bổ sung từ các nguồn thu tăng cao từ việc phát triển kinh tế đã giúp cho nhà nước có nguồn ngân sách dồi dào hơn để đầu tư cho việc xây dựng hạ tầng xã hội. Từ việc chỉ có duy nhất ngân sách nhà nước đầu tư cho việc xây dựng thì giờ được bổ
En cours de traduction, veuillez patienter...
 
Autres langues
l'outil d'aide à la traduction: Afrikaans, Albanais, Allemand, Amharique, Anglais, Arabe, Arménien, Azéri, Basque, Bengali, Birman, Biélorusse, Bosniaque, Bulgare, Catalan, Cebuano, Chichewa, Chinois, Chinois traditionnel, Cingalais, Corse, Coréen, Croate, Créole haïtien, Danois, Détecter la langue, Espagnol, Espéranto, Estonien, Finnois, Français, Frison, Galicien, Gallois, Gaélique (Écosse), Grec, Gujarati, Géorgien, Haoussa, Hawaïen, Hindi, Hmong, Hongrois, Hébreu, Igbo, Irlandais, Islandais, Italien, Japonais, Javanais, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Kirghiz, Klingon, Kurde, Laotien, Latin, Letton, Lituanien, Luxembourgeois, Macédonien, Malaisien, Malayalam, Malgache, Maltais, Maori, Marathi, Mongol, Norvégien, Néerlandais, Népalais, Odia (oriya), Ouzbek, Ouïgour, Pachtô, Panjabi, Persan, Philippin, Polonais, Portugais, Roumain, Russe, Samoan, Serbe, Sesotho, Shona, Sindhî, Slovaque, Slovène, Somali, Soundanais, Suédois, Swahili, Tadjik, Tamoul, Tatar, Tchèque, Telugu, Thaï, Turc, Turkmène, Ukrainien, Urdu, Vietnamien, Xhosa, Yiddish, Yorouba, Zoulou, indonésien, Traduction en langue.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: